Halite là tên khoáng chất của muối, hoặc natri clorua; nó được gọi là muối mỏ khi ở dạng đá. Halit thường có màu trắng hoặc màu trong, nhưng nó có thể có nhiều màu khác nhau bao gồm xanh lam, tím, hồng và vàng do tạp chất. Halit hình thành nhờ sự bay hơi của nước biển trong một thời gian dài và nó được coi là một khoáng chất trầm tích.
Halite cũng có thể hình thành gần các hồ do sự bay hơi của nước muối. Những mỏ muối này thường được tìm thấy dọc theo các hồ muối ở những vùng khô hạn, chẳng hạn như gần Thành phố Salt Lake, Utah. Ở những khu vực không khô cằn hoặc khô hạn, halit được tìm thấy trong các tầng sâu dưới lòng đất. Độ cứng Mohs của nó là 2,5, và công thức hóa học của nó là NaCl. Trọng lượng riêng của nó là khoảng 2, và hệ tinh thể của nó là đẳng áp.
Việc sử dụng halit của loài người có từ năm 3000 trước Công nguyên. Trong thời cổ đại, nó có thể được sử dụng cho mục đích nấu ăn hoặc bảo quản thịt hoặc các loại thực phẩm khác. Ngày nay, halit dưới dạng muối mỏ được sử dụng để làm nghiêng đường cao tốc và vỉa hè trong mùa đông. Nó cũng được sử dụng trong ngành công nghiệp dược phẩm và hóa chất và có thể được sử dụng để làm kem.