Theo Tổ chức Công nghiệp Công nghệ Sinh học, hiện có hơn 250 sản phẩm công nghệ sinh học, bao gồm thuốc, vắc xin, phân bón, cây trồng kháng sâu bệnh, nhiên liệu sinh học và các sản phẩm phòng vệ sinh học. Một số sản phẩm sinh học cụ thể -các sản phẩm công nghệ bao gồm thiết bị phát hiện bệnh than, táo không hóa nâu, chất chống độc nọc rắn, insulin, ethanol và Treethanol, là một loại nhiên liệu được làm từ cellulose thực vật.
Công nghệ sinh học đang được sử dụng để phát triển các sản phẩm và công nghệ mới nhằm chống lại bệnh tật, giảm thiểu ô nhiễm, cải thiện nông nghiệp và sản xuất các sản phẩm đồng thời tạo ra ít ô nhiễm và chất thải hơn.
Trong lĩnh vực y tế, các công ty đang sử dụng công nghệ sinh học để phát triển các loại thuốc mới nhanh chóng và hiệu quả hơn. Công nghệ sinh học xác định các gen và protein có liên quan đến bệnh tật. Các công ty sử dụng gen này làm mục tiêu thuốc và dấu hiệu chẩn đoán. Họ sàng lọc hàng ngàn hợp chất để xác định các loại thuốc hiệu quả. Họ tinh chế các hóa chất, kiểm tra độc tính và sau đó chuyển sang thử nghiệm lâm sàng.
Một lĩnh vực khác mà công nghệ sinh học đang thịnh hành là trong sản xuất thực phẩm. Chỉ có một số công ty lớn, chẳng hạn như Dow và Monsanto, sử dụng công nghệ sinh học trong quá trình nghiên cứu và phát triển của họ để sản xuất ngũ cốc và rau biến đổi gen. DuPont đã tạo ra các loại cây trồng chống côn trùng, hạn hán và chịu nhiệt phát triển trên đất nghèo dinh dưỡng với ít phân bón hơn. Họ cũng đang nghiên cứu thức ăn chăn nuôi để giảm hàm lượng cholesterol trong các sản phẩm thực phẩm như thịt và trứng.