Ai đã phát hiện ra 4 Mặt trăng đầu tiên của Sao Thổ?

Bốn mặt trăng đầu tiên của Sao Thổ được Christiaan Huygens và Giovanni Domenico Cassini phát hiện từ năm 1655 đến 1684. Tính đến năm 2014, Sao Thổ có 53 mặt trăng đã được xác nhận và 9 mặt trăng tạm thời.

Huygens chỉ phát hiện ra Titan, mặt trăng đầu tiên được phát hiện, vào năm 1655. Cassini đã phát hiện ra bốn mặt trăng tiếp theo, tìm thấy Iapetus vào năm 1671, Rhea vào năm 1672 và cả Dione và Tethys vào năm 1684. William Herschel đã phát hiện ra hai mặt trăng, Mimas và Enceladus, trong 1789.

Các nhà thiên văn học bổ sung đã nâng tổng số mặt trăng được phát hiện lên 18 vào thời điểm NASA khởi động sứ mệnh Cassini-Huygens vào năm 1997, chịu trách nhiệm khám phá nhiều mặt trăng còn lại. Mặt trăng lớn nhất của Sao Thổ là Titan.

Sao Thổ có 62 mặt trăng, trong đó 53 mặt trăng được chính thức công nhận trong khi các mặt trăng còn lại là tạm thời. Hai trong số các mặt trăng nhỏ nhất là Telesto và Calypso. Hầu hết các mặt trăng của Sao Thổ có tên bắt nguồn từ thần thoại Hy Lạp hoặc La Mã. Ví dụ, Calypso là tên của một nữ thần biển trong thần thoại Hy Lạp.

Sao Thổ là một hành tinh bên ngoài. Bầu khí quyển của Sao Thổ chủ yếu bao gồm hydro và heli. Hành tinh này cũng có hơn 30 vòng.