Tên oxy được đặt ra bởi Antoine Lavoisier vào thế kỷ 18 và là sự kết hợp của hai từ tiếng Hy Lạp: oxy, có nghĩa là axit và gen, có nghĩa là tạo ra. Vào thời điểm đó oxy là Lavoisier đã nhầm tưởng rằng nó là một thành phần cần thiết để tạo ra axit.
Oxy được phát hiện thường xuyên hơn bất kỳ nguyên tố nào khác. Những gì sau đó được xác định là oxy đã được tạo ra bởi nhiều nhà hóa học trong suốt những năm đầu của ngành hóa học, mặc dù không ai công nhận sự hiện diện của nguyên tố này. Joseph Priestley đã phân lập oxy trong phòng thí nghiệm của mình vào năm 1774, và cùng khoảng thời gian đó, Carl Wilhelm Scheele cũng sản xuất oxy một cách độc lập.
Các tên khác nhau được đặt cho nguyên tố phản ánh sự nhầm lẫn về vai trò của nó trong các tương tác hóa học với các nguyên tố khác. Priestley gọi là không khí khử oxy, phản ánh niềm tin hiện tại rằng một chất bí ẩn, được gọi là phlogiston, là một thành phần cần thiết của quá trình đốt cháy. Scheele gọi nguyên tố này là "không khí lửa" liên quan đến vai trò rõ ràng của oxy trong quá trình cháy. Cuối cùng, Antoine Lavoisier đã kiểm tra quy trình sản xuất oxy tinh khiết trong phòng thí nghiệm của mình và xác định chính xác loại khí mà ông tạo ra là một nguyên tố mới. Thật không may, Lavoisier có ít kinh nghiệm về hóa học của axit, điều này khiến anh ta có niềm tin sai lầm rằng tất cả các axit đều được tạo ra xung quanh các nhóm oxy.