Theo Bảo tàng Cổ sinh vật học của Đại học California, vi khuẩn cổ đại, hay đơn giản là vi khuẩn cổ, là những sinh vật nhân sơ phức tạp, đơn bào. Archaebacteria là một tên gọi sai vì những sinh vật này có cấu tạo di truyền khác với vi khuẩn.
Bao gồm một miền riêng biệt với Nhân chuẩn và Vi khuẩn, Archaea không có nhân, sinh sản bằng cách phân đôi, không thực hiện quang hợp và không tạo ra bào tử. Chúng có thể bơi bằng cách sử dụng trùng roi của chúng. Archaea sống trong nhiều điều kiện và môi trường khác nhau, bao gồm các khu vực nóng và nóng chảy của biển sâu, bên trong mạch nước phun và ở vùng biển cực. Được coi là loài ưa cực đoan, Archaea có thể sống ở nhiệt độ trên 212 độ F. Theo Encyclopedia of Life, một số dạng Archaea sống trong cống rãnh, đất và đầm lầy. Archaea chiếm khoảng 20% sinh khối của Trái đất, nhưng hầu hết Archaea chưa được nghiên cứu.
Archaea lần đầu tiên được phát hiện vào cuối những năm 1970 khi các nhà khoa học tìm thấy một nhóm sinh vật có trình tự DNA khác nhau từ vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn. Một số Archaea đã được tìm thấy trong các suối nước nóng của Công viên Quốc gia Yellowstone, theo ghi chú của lớp học từ Trường Cao đẳng Rhode Island. Carl Woese, một nhà vi sinh vật học, lần đầu tiên đề xuất sự tách biệt giữa Archaea, Eubacteria và Eukarya, nhưng sự phân tách đã không xảy ra cho đến năm 1977 khi mã hóa di truyền cho phép các nhà khoa học xác định sự khác biệt di truyền giữa các sinh vật, Encyclopedia of Life giải thích.