Chức năng của bạch cầu trung tính là tiêu diệt và loại bỏ các chất lạ. Bạch cầu trung tính bao quanh vật thể lạ và tiêu hóa nó bằng các enzym. Bạch cầu trung tính chiếm khoảng 60 phần trăm của tất cả các tế bào bạch cầu, hoặc bạch cầu.
Bạch cầu trung tính tập trung tại vị trí bị thương hoặc nhiễm trùng. Chúng bao quanh vi khuẩn và tiêu thụ chúng bằng cách sử dụng lysosome, là cấu trúc bên trong tế bào có chứa các enzym tiêu hóa. Bạch cầu trung tính, cùng với bạch cầu ái toan và bạch cầu ưa bazơ, được gọi là bạch cầu hạt vì những tế bào này chứa một chất trông giống như hạt. Những hạt này thực sự là lysosome.
Các bạch cầu trung tính mới được tạo ra có một hạt nhân tròn, duy nhất. Khi chúng già đi, các nhân bạch cầu trung tính bị vỡ ra. Bác sĩ có thể biết cơ thể có phản ứng với nhiễm trùng hay không bằng cách quan sát xem các nhân của bạch cầu trung tính có còn nguyên vẹn hay không.
Bạch cầu trung tính thường di chuyển khắp cơ thể trong dòng máu. Khoảng 3.000 đến 6.000 bạch cầu trung tính thường có trong mỗi ml máu. Khi bị thương hoặc nhiễm trùng, máu bắt đầu tích tụ xung quanh vết thương. Yếu tố hóa học là những chất nằm trên mô bị thương và những kẻ xâm lược ngoại lai như vi khuẩn. Những yếu tố này thu hút bạch cầu trung tính đến vị trí bị thương hoặc nhiễm trùng. Bạch cầu trung tính dính vào lớp tế bào bên trong của mạch máu tại vị trí tổn thương. Các bạch cầu này sau đó chui qua các lớp tế bào của mạch máu vào khu vực giữa các tế bào, được gọi là khoảng kẽ, nơi chúng gặp các chất lạ và tiêu diệt chúng.