Phốt pho được sử dụng trong sản xuất thép, diêm, phân bón, chất tẩy rửa, điốt phát sáng, bát đĩa, muối nở, vũ khí, pháo hoa và như một phương pháp điều trị y tế. Phốt pho được cơ thể sử dụng cho sự phát triển của răng và xương. Nó cũng được tìm thấy trong nhiều hóa chất tế bào, chẳng hạn như adenosine triphosphate và axit nucleic.
Phốt pho nguyên tố có tính phản ứng cao và không được sử dụng nhiều trong công nghiệp. Trên thực tế, phốt pho chủ yếu được sử dụng trong các hợp chất hóa học, chẳng hạn như axit photphoric và natri tripolyphotphat.
Có ba dạng nguyên tố photpho chính: đỏ, trắng và đen. Phốt pho trắng là chất độc, phản ứng mạnh và bốc cháy khi tiếp xúc với không khí. Nó đã được sử dụng trong vũ khí đốt cháy và sản xuất pháo hoa.
Phốt pho đỏ được tạo thành bằng cách nung nóng phốt pho trắng đến 250 độ C. Nó ổn định hơn phốt pho trắng và được sử dụng để làm diêm. Phốt pho đen được tạo ra bằng cách đun nóng thêm phốt pho đỏ. Phốt pho đen rất bền và có các tính chất tương tự như than chì.Phốt pho được phát hiện vào năm 1669 bởi bác sĩ và nhà giả kim người Đức Hennig Brand. Ông đã cô lập phốt pho từ nước tiểu bằng cách đun sôi nó và lọc nước tiểu cho đến khi ông có một hỗn hợp phốt pho trắng đặc. Ông gọi khám phá của mình là "ngọn lửa lạnh" vì nó phát sáng trong bóng tối.