Mưa axit làm tan từ từ nhiều loại đá. Các khoáng chất có gốc canxi như đá cẩm thạch và đá vôi đặc biệt dễ bị tổn thương; điều này là do phản ứng của canxi với axit sunfuric trong mưa axit.
Khả năng hòa tan đá cẩm thạch và đá vôi của mưa axit khiến nó trở nên nguy hiểm đối với các tòa nhà và di tích ngoài trời. Đá Igneous và đá biến chất tiếp xúc với mưa axit có thể gây nhiễm độc cho các hệ sinh thái; đá như đá granit và đá gneiss giải phóng các ion nhôm độc hại vào môi trường khi tiếp xúc với mưa axit.
Nước mưa tự nhiên có tính axit cao hơn các dạng nước khác do carbon dioxide hòa tan. Khí cacbonic trở thành axit cacbonic khi hòa tan trong nước, làm cho nước mưa có độ pH từ 5 đến 6. Mưa axit chứa axit sunfuric và axit nitric, khiến nó thậm chí còn có tính axit hơn nước mưa thông thường. Các axit này hình thành khi khí nitơ và lưu huỳnh được thải vào khí quyển và có độ pH từ 4 đến 5.Đốt nhiên liệu hóa thạch để lấy năng lượng và nấu chảy quặng kim loại là hai nguyên nhân chính gây ra mưa axit. Các nhà máy điện đốt than thải ra nhiều chất ô nhiễm gây ra mưa axit hơn bất kỳ ngành công nghiệp nào khác, tập trung lượng mưa axit tồi tệ nhất ở các khu vực đốt nhiều than. Ohio, Pennsylvania và New York là những bang có tỷ lệ mưa axit cao nhất.