Protein biến tính được thủy phân và các liên kết peptit bị phá vỡ thành các axit amin dễ tiêu hóa. Thực phẩm bổ sung protein thường chứa các protein biến tính để tăng khả năng hấp thụ. Các vận động viên sử dụng protein biến tính để đưa protein bổ sung vào cơ nhanh hơn.
Quá trình biến tính không đủ mạnh để phá vỡ các liên kết peptit tạo nên các axit amin trong protein, vì vậy chúng vẫn hữu ích cho các chất bổ sung và đồ uống dinh dưỡng. Nhiệt là phương pháp chính để biến tính protein. Động năng từ sự tăng nhiệt độ làm cho các phân tử của protein dao động và các liên kết bị đứt. Một số vitamin và khoáng chất bị mất trong quá trình này, nhưng các axit amin thường vẫn còn nguyên vẹn. Protein biến tính trong bột thường bao gồm các chất bổ sung để bù đắp cho các chất dinh dưỡng bị mất.
Hầu hết các protein đều bị biến tính khi mọi người ăn chúng. Việc nấu chín lòng trắng trứng làm biến tính protein. Biến tính sắp xếp lại các protein, nhưng không phá hủy chúng. Một số protein bị biến tính ở nhiệt độ cao có giá trị dinh dưỡng thấp hơn. Biến tính protein yêu cầu điều chỉnh nhiệt độ chính xác và thường là một quá trình làm biến tính protein trước khi sử dụng trong bột và chất bổ sung. Các chất bổ sung protein không biến tính bỏ qua quá trình biến tính và có nhiều chất dinh dưỡng ban đầu hơn. Chất bổ sung protein hầu hết được biến tính để tăng khả năng hấp thụ và giảm chất gây ô nhiễm.