Tại sao người Mỹ di chuyển về phương Tây vào những năm 1800?

Người Mỹ chuyển đến phương Tây vào những năm 1800 vì mọi người muốn sở hữu đất đai của riêng mình và có một khởi đầu mới. Việc mở rộng cũng mang lại cho họ những khả năng kinh tế mới, chẳng hạn như trồng trọt và khai thác vàng.

Định mệnh Tuyên bố Một nguyên tắc đã định hướng cho sự mở rộng về phía tây của đất nước là Manifest Destiny, hay niềm tin rằng Hoa Kỳ có trách nhiệm thiêng liêng là giải quyết và truyền bá nền dân chủ trên khắp Bắc Mỹ. Mặc dù thuật ngữ này không xuất hiện trên bản in cho đến năm 1845, khái niệm Định mệnh Tuyên ngôn đã tồn tại và tồn tại ở Hoa Kỳ kể từ nhiệm kỳ tổng thống của Jefferson. Những người ủng hộ đã sử dụng niềm tin này để bảo vệ quyết định đòi Lãnh thổ Oregon, sáp nhập Texas cũng như Hiệp ước Guadalupe Hidalgo, trong đó Mexico từ bỏ quyền của mình đối với khu vực hiện là Arizona, New Mexico, California, Colorado, Nevada, Utah và Wyoming.

Cơ hội được mở rộng Mọi người đã đồng ý di chuyển về phía tây vì nhiều lý do khác nhau và mang tính cá nhân cao. Đối với một số người trong số họ, nó đã cho họ cơ hội sở hữu đất đai của mình, đặc biệt là sau khi Quốc hội bắt đầu thông qua Đạo luật Homestead vào năm 1862. Đạo luật Homestead đầu tiên đã trao tới 160 mẫu đất tự do cho bất kỳ công dân trưởng thành nào đã có gia đình, trả tiền đăng ký. lệ phí và đồng ý sống trên tài sản trong năm năm. Những người khác lại thích những không gian mở rộng lớn hơn là những khu vực chật hẹp của các căn hộ đô thị. Một nhóm khác, đặc biệt là các nghệ nhân quay về phía Tây khi quá trình công nghiệp hóa ở các thành phố khiến họ không có việc làm vẫn cần thiết ở các vùng lãnh thổ mới. Việc phát hiện ra vàng ở California đã thu hút các nhà đầu cơ, những người đôi khi bán tài sản của họ để trả tiền cho chuyến hành trình đến San Francisco. Cơn sốt vàng năm 1849 này đã làm tăng dân số của California và khuyến khích sự phát triển của cơ sở hạ tầng ở các thị trấn khai thác vàng.

Câu hỏi về chế độ nô lệ Vấn đề nô lệ cũng đóng một vai trò trong sự bành trướng của Hoa Kỳ. Trong thời gian lâu nhất có thể, chính phủ liên bang đã làm việc để duy trì sự cân bằng giữa đại diện của các quốc gia ủng hộ chế độ nô lệ và chống chế độ nô lệ trong liên minh. Mỗi khi đất nước giành được lãnh thổ mới, cuộc tranh luận tập trung vào việc liệu nó có dẫn đến việc thêm một nhà nước tự do hay nô lệ mới hay không. Thỏa hiệp Missouri năm 1820 cho phép Maine gia nhập Liên minh với tư cách là một quốc gia tự do và Missouri ở trạng thái nô lệ, thiết lập tiền lệ giữ một số lượng cân bằng như nhau của mỗi loại nhà nước. Nó cũng cấm chế độ nô lệ ở bất kỳ vùng đất nào trong lãnh thổ mới nằm ở phía bắc biên giới phía nam Missouri. Ba mươi bốn năm sau, Đạo luật Kansas-Nebraska cho phép những người định cư ở các vùng lãnh thổ mới có quyền quyết định cho phép chế độ nô lệ hay đặt ngoài vòng pháp luật. Điều này dẫn đến một dòng người ở các vùng lãnh thổ Kansas và Nebraska, vì mọi người di chuyển đến đó chỉ để họ có thể bỏ phiếu về vấn đề nô lệ.