Thả một viên bi hoặc ổ bi qua chất lỏng là một phương pháp đơn giản để đo độ nhớt, trong khi đó Máy đo độ nhớt Ostwald phức tạp hơn và chính xác hơn. Phương pháp đặt ổ bi bao gồm các tính toán khắt khe hơn so với máy đo độ nhớt.
Cách dễ nhất để xác định độ nhớt là thả một quả cầu nặng qua chất lỏng được đề cập và ghi lại thời gian để nó đi qua hoàn toàn chất lỏng. Bóng rơi càng nhanh thì độ nhớt càng cao. Tuy nhiên, có những tính toán nghiêm ngặt cần thiết để xác định một phép đo độ nhớt thực tế. Một phép tính độ nhớt hữu ích cho phương pháp quả cầu rơi là 4r ^ 2g (ps - pf) /9Vs. Trong phương trình này, r là bán kính của quả cầu, g là gia tốc từ trọng lực (981 cm /s ^ 2), ps là khối lượng riêng của quả cầu, pf là khối lượng riêng của chất lỏng và Vs là vận tốc đầu của quả cầu.
Máy đo độ nhớt Ostwald yêu cầu thu thập dữ liệu liên quan nhiều hơn nhưng tính toán ít nghiêm ngặt hơn. Máy đo độ nhớt là một ống mao dẫn có bình chứa ở mỗi đầu. Ống mao dẫn tạo thành hình chữ u với bể chứa đầu tiên ở một bên và thấp hơn bể chứa ở phía bên kia. Để đo độ nhớt bằng nhớt kế, đổ đầy chất lỏng vào ống mao dẫn cho đến khi chất lỏng đạt ngay phía trên bình chứa đầu tiên. Tiếp theo, đặt thiết bị vào nồi cách thủy để cân bằng nhiệt độ. Sau đó, lực hút sẽ kéo chất lỏng đi qua ống. Khoảng thời gian mà chất lỏng cần để di chuyển qua bể chứa thứ hai được sử dụng trong phương trình độ nhớt = K t, trong đó t là thời gian và K là giá trị của một chất lỏng đã biết, thường là nước.