Thỏa hiệp lớn năm 1787, hay Thỏa hiệp Connecticut, là kết quả của cuộc tranh luận giữa các đại biểu của các bang về số lượng đại diện mà mỗi bang nên có trong Quốc hội.
Bối cảnh lịch sử
Những năm 1780 là một thập kỷ đầy những quyết định quan trọng trong việc hình thành một quốc gia Hoa Kỳ. Năm 1781, các bang đang bận rộn thiết lập một cơ cấu chính phủ thông qua việc ký kết các Điều khoản Liên bang. Rất tiếc, những bài báo này đã bỏ qua một số vấn đề quan trọng, bao gồm thuế, quy định buôn bán và nô lệ, và dự thảo. Ngoài ra, có nhiều bất ổn tài chính vào thời điểm đó, cả ở cấp độ cá nhân và nhà nước. Kết quả là vào năm 1787, một nhóm gồm 55 đại biểu từ 12 tiểu bang đã họp tại Philadelphia, Pennsylvania, cho Đại hội thảo luận về những cải tiến có thể được thực hiện đối với các Điều khoản.
Một trong những vấn đề được thảo luận là vấn đề đại diện. Mặc dù đã đồng ý rằng tất cả các bang phải được đại diện, nhưng các đại biểu khác nhau về số lượng đại diện mà mỗi bang nên có.
Mặt đối lập
Hầu hết các đại biểu từ các bang đông dân hơn ủng hộ Kế hoạch Virginia do Edmund Randolph và James Madison lập ra. Nó kêu gọi phân chia chính phủ thành ba nhánh (lập pháp, hành pháp và tư pháp), phục vụ cho một hệ thống hai bộ phận. Randolph và Madison cảm thấy rằng các công dân nên bầu chọn Hạ viện, những người này sẽ lần lượt bầu chọn Hạ viện. Điều đáng kể là, kế hoạch này xác định mức độ đại diện của tiểu bang đối với dân số của các tiểu bang. Các quốc gia lớn hơn khẳng định rằng, do đóng góp lớn hơn về tài chính và phòng thủ cho quốc gia, họ cũng nên nhận được sự đại diện lớn hơn của chính phủ.
Mặt khác, các bang ít dân hơn lo ngại rằng hệ thống này sẽ dẫn đến việc các phiếu bầu của họ dễ bị ghi đè và do đó các bang lớn hơn sẽ vô hiệu. Do đó, họ thích đề xuất của William Patterson, được gọi là Kế hoạch New Jersey. Nó dựa trên hệ thống Điều khoản Liên bang ban đầu, ủng hộ cơ quan lập pháp một viện với một Quốc hội đầy quyền lực. Mỗi tiểu bang sẽ nhận được sự đại diện như nhau, bất kể dân số. Các đại diện của Quốc hội sẽ được bầu bằng phổ thông đầu phiếu, mặc dù ông đã đề xuất các cuộc chỉ định trọn đời của Tòa án Tối cao do cơ quan hành pháp lựa chọn.
Tranh cãi về vấn đề này gần như đã làm trật bánh Đại hội. Kết quả có thể xảy ra là Hiến pháp Hoa Kỳ như chúng ta biết sẽ không tồn tại.
Thỏa hiệp
Một thỏa hiệp đã đạt được khi Roger Sherman, một đại biểu từ Connecticut, đề xuất một kế hoạch nhằm giải quyết nhu cầu của cả hai bên. Ông đề xuất phương pháp tiếp cận Quốc hội hai phòng: thượng viện, hoặc Thượng viện, và hạ viện, hoặc Hạ viện. Mặc dù mỗi bang sẽ chỉ nhận được hai thượng nghị sĩ bất kể dân số, nhưng họ sẽ được đại diện tại Hạ viện bởi một thành viên trên mỗi 300.000 công dân.
Mặc dù Benjamin Franklin đặc biệt phản đối Thỏa hiệp lớn, nhưng nó đã được thông qua bằng một phiếu bầu vào ngày 16 tháng 7 năm 1787.
Hậu quả
Thỏa hiệp lớn đã giải quyết một mâu thuẫn lớn và giúp thúc đẩy sự phát triển của Hiến pháp và các vấn đề khác sớm được đặt lên hàng đầu. Ví dụ, một số bang miền Nam cảm thấy nô lệ của họ nên được tính vào việc tăng cường đại diện vì họ đã đóng góp vào sự thịnh vượng tài chính của quốc gia. Các quốc gia khác lập luận rằng nô lệ không phải là công dân và do đó không xứng đáng được đại diện bổ sung. Điều này cuối cùng đã dẫn đến sự hình thành của Thỏa hiệp ba phần năm.