Khi đun nóng, amoni clorua phân hủy thành amoniac và hydro clorua. Hiệu quả dễ thấy của phản ứng này là hợp chất dường như thăng hoa thành trạng thái khí. Khi các chất khí nguội đi, chúng kết tinh ở trạng thái ban đầu: amoni clorua rắn.
Amoni clorua được gọi là sal amoniac khi được tìm thấy trong tự nhiên. Nó hình thành gần các bãi than đang cháy và trên đá núi lửa khi khí amoniac và hydro clorua nguội đi và kết tinh. Amoni clorua sản xuất trong phòng thí nghiệm không sử dụng quy trình này; thay vào đó, amoniac và hydro clorua hoặc axit clohydric được kết hợp trực tiếp.
Amoni clorua hòa tan trong nước và có tính axit nhẹ trong dung dịch. Ngoài khả năng hòa tan trong nước, nó có thể hòa tan trong amoniac, axeton, rượu và hydrazine. Nó là một chất rắn không mùi, không tan chảy.
Công dụng thương mại chính của nó là làm phân bón, đặc biệt là làm phân bón cho lúa gạo ở Nhật Bản. Nó cũng được sử dụng trong đồ kim loại như một chất trợ hàn, trong thuốc ho làm thuốc long đờm, trong pháo hoa để tăng màu xanh lam và xanh lá cây, và như một chất phụ gia thực phẩm. Khi được sử dụng như một chất phụ gia thực phẩm, amoni clorua được dán nhãn là 'amoni sal' hoặc phụ gia E510. Nó được chấp thuận như một chất phụ gia làm bánh và một hương liệu cam thảo. E510 được sử dụng như một chất điều chỉnh độ chua, chất tăng hương vị và như một chất dinh dưỡng cho men trong các sản phẩm lên men từ nấm men như bánh mì.