Niken được chiết xuất từ quặng thông qua quy trình Mond, trong đó các ôxít niken được tinh chế qua nhiều bước thành kim loại niken tinh khiết. Nó được đặt với khí hydro và carbon monoxide ở 122 độ F, sẽ chuyển đổi nó để không tinh khiết niken. Niken không tinh khiết này sau đó phản ứng với cacbon monoxit, trở thành niken tetracarbonyl. Sau đó, nó được làm nóng đến 446 độ F, giải phóng khí carbon monoxide và để lại kim loại niken tinh khiết.
Tiền xu tương đối nguyên chất làm bằng niken đã được sử dụng từ năm 235 trước Công nguyên ở Trung Quốc, nhưng nó lần đầu tiên được ghi nhận là một kim loại độc đáo sau khi khai thác vào năm 1751. Ban đầu nó được coi là vô giá trị, nhưng nhiều công dụng của nó đã sớm được phát hiện. Niken là một kim loại rất hữu ích để chế tạo hợp kim, tăng thêm độ bền, độ cứng và khả năng chống ăn mòn. Nó được sử dụng để mạ bạc và là thành phần chính của thép không gỉ, một trong những hợp kim được sử dụng nhiều nhất.
Mặc dù niken xuất hiện tự nhiên dưới dạng kim loại nguyên chất ở dạng tinh thể khối, nhưng nó thường được khai thác từ quặng hỗn hợp. Là một kim loại nguyên chất, nó dễ uốn và dễ uốn và có độ dẫn nhiệt và điện trung bình. Niken cũng là một kim loại có từ tính dưới 653 độ F. Nó có phần phản ứng với axit nitric, hydrochloric và sulfuric loãng.