Có khoảng 3.800 loại khoáng chất được đặt tên trên thế giới và khoảng 30 đến 50 loại khoáng chất mới được mô tả mỗi năm, theo Hiệp hội khoáng vật học Hoa Kỳ. Một số cuốn sách và sách hướng dẫn liệt kê, mô tả và giải thích về mỗi loại được đặt tên khoáng chất và các đặc tính của nó. Khoáng chất phổ biến nhất trong vỏ trái đất là silic.
Hiệp hội khoáng vật học quốc tế chịu trách nhiệm đặt tên và lập danh mục các loại khoáng sản mới. Các nhà địa chất đệ trình các đề xuất và khám phá lên Ủy ban về Khoáng sản Mới và Tên Khoáng sản của tổ chức trước khi công bố các phát hiện trong vòng hai năm kể từ khi phát hiện ra. Một mẫu khoáng chất được lưu trữ trong bảo tàng để các mẫu vật trong tương lai có thể được so sánh với nó cho mục đích nghiên cứu.
Một số khoáng chất phổ biến nhất trên trái đất bao gồm thạch anh, mica, olivin, fenspat, amphibole và pyroxen. Thạch anh được làm từ silicon dioxide, một khoáng chất thường được xác định là những hạt cát trên bãi biển hoặc trong sa mạc. Fenspat có nhiều loại khác nhau, vì khoáng chất này mô tả bảy sự pha trộn chính của các nguyên tố. Khoảng 60% vỏ trái đất được cấu tạo từ fenspat. Mica được gọt thành từng lớp phẳng và có các màu từ trắng đến nâu sẫm.
Các khoáng chất phổ biến khác bao gồm talc, pyrit (vàng của kẻ lừa đảo), canxit, đất sét và magnetit. Khoáng sản được định nghĩa là chất rắn đồng nhất, được hình thành tự nhiên, được hình thành bởi các quá trình địa chất và có thành phần hóa học được xác định rõ ngoài cấu trúc nguyên tử có trật tự.