Sir Humphry Davy phát hiện ra canxi vào năm 1808 bằng cách cô lập kim loại không tinh khiết thông qua điện phân hỗn hợp vôi và thủy ngân oxit. Ông đã hoàn thành điều này bằng cách nghiên cứu điều chế hỗn hống canxi thông qua quá trình điện phân vôi trong thủy ngân.
Thuật ngữ canxi bắt nguồn từ từ tiếng Latinh calx, có nghĩa là vôi. Người La Mã đã điều chế vôi, đá vôi và các hợp chất canxi khác dưới tên gọi calx. Con người đã sử dụng vôi trong hàng trăm năm để tạo ra thạch cao và vữa.
Antoine Lavoisier đã phân loại vôi là “đất”, vì nó dường như không khả thi để giảm thêm hợp chất canxi. Tuy nhiên, ông phỏng đoán rằng vôi có thể là một oxit của một nguyên tố không xác định. Sir Humphry Davy đã cố gắng khử vôi ẩm bằng cách điện phân giống như cách ông giảm natri và kali, nhưng thí nghiệm của ông không diễn ra tốt đẹp. Ông ấy đã thử lại bằng cách sử dụng hỗn hợp vôi và thủy ngân ôxít, và ông ấy có thể tạo ra một hỗn hợp canxi và thủy ngân. Tuy nhiên, điều này không đủ để xác minh việc phát hiện ra một phần tử mới. Jons Jacob Berzelius cũng thực hiện một thí nghiệm tương tự và thu được kết quả tương tự. Sau đó Davy quyết định cho thêm vôi vào hỗn hợp. Ông đã có thể tạo ra nhiều hỗn hống hơn và chưng cất thủy ngân, do đó thu được thành công canxi.