Những người Liên bang phản đối Chiến tranh năm 1812 vì các chính sách của đảng đối lập tuyên chiến, do Thomas Jefferson đứng đầu và sau đó là James Madison đứng đầu, đã đưa thành trì của Đảng Liên bang ở New England đến bờ vực diệt vong. Lệnh cấm vận của Thomas Jefferson đối với hàng hải Mỹ, thay vì bảo vệ các tàu và thủy thủ của Mỹ, đã gây ra tình trạng thất nghiệp lớn, đóng cửa các ngân hàng và tạo ra một bế tắc ảo trong thương mại.
Các đảng viên Dân chủ-Cộng hòa của James Madison tuyên chiến với Anh không chỉ để giảm bớt vấn đề vận chuyển mà còn tạo cơ hội cho các bang và vùng lãnh thổ phía Tây chiếm đất từ Canada. Ngay cả sau khi lời tuyên chiến được Quốc hội thông qua với một biên độ hẹp, các quốc gia theo chủ nghĩa Liên bang vẫn tiếp tục phản đối, từ chối cho phép dân quân của các bang tham gia vào nỗ lực chiến tranh. Họ cáo buộc Madison tham nhũng và muốn thành lập liên minh với Napoléon Bonaparte. Mặt khác, phe Dân chủ-Cộng hòa cáo buộc phe Liên bang muốn chia rẽ quốc gia và tái tổ chức với Anh. Một số thống đốc New England đã công khai lên án nỗ lực chiến tranh.
Vào tháng 12 năm 1814, các đại biểu từ một số bang ở New England đã tập hợp tại Công ước Hartford để thảo luận về các giải pháp cho tình thế tiến thoái lưỡng nan gây chia rẽ. Tuy nhiên, vào thời điểm các đại diện của hội nghị đến Washington D.C. với một danh sách đề xuất sửa đổi Hiến pháp, một hiệp ước hòa bình đã được ký kết với Anh và chiến tranh đã kết thúc. Sau đó, Đảng Liên bang từ chối và cuối cùng biến mất.