Mười Điều Răn được trích từ Xuất Ê-díp-tô Ký 20: 1-17 và được liệt kê theo thứ tự như được tìm thấy trong đoạn văn đó. Người Tin lành, Công giáo và Do Thái đều công nhận Mười Điều răn như được nêu trong đoạn văn này, nhưng mỗi tôn giáo định nghĩa và đánh số các điều răn riêng lẻ hơi khác so với những điều răn khác.
Mười Điều Răn được liệt kê trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20 thường bao gồm việc công nhận quyền tối cao của Đức Chúa Trời bằng cách không có bất kỳ vị thần nào khác trước ngài, không lạm dụng danh Đức Chúa Trời và giữ ngày Sa-bát để tôn vinh Đức Chúa Trời. Các điều răn còn lại bao gồm điều răn phải hiếu kính cha mẹ, và con người không được giết người, ngoại tình, trộm cắp, làm chứng gian dối về một người, hoặc thèm muốn vợ hoặc những thứ của người hàng xóm. Sự khác biệt về cách đánh số chủ yếu xảy ra trong các lệnh được tìm thấy trong các câu từ một đến sáu. Bản thân đoạn Kinh thánh có từ 13 đến 17 câu, tùy thuộc vào phiên bản và mỗi tôn giáo trong số ba tôn giáo này chia các câu thành các điều răn được đánh số với một số biến thể.
Mười Điều Răn của người Do Thái sử dụng câu đầu tiên của câu hai, "Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi..." như điều răn số một của nó. Các phiên bản Công giáo và Tin lành bắt đầu bằng câu ba, "Trước mặt ta, ngươi sẽ không có vị thần nào khác." Những người Tin lành sau đó sử dụng câu 4, "Bạn không được tạo cho mình một hình tượng..." Cho điều răn thứ hai của nó, trong khi phiên bản Công giáo bỏ qua câu bảy, "Bạn không được nhân danh Chúa là Đức Chúa Trời của bạn một cách vô ích. " Những người theo đạo Tin lành sử dụng câu bảy này như điều răn thứ ba của họ. Những người theo đạo Tin lành kết hợp các số chín và mười của Công giáo thành một điều răn. Điều răn thứ hai của người Do Thái cũng giống như điều răn thứ hai của đạo Tin lành cộng lại.
Tuy nhiên, cả ba tôn giáo đều đi theo thứ tự khi các điều răn xuất hiện trong đoạn văn và cả ba tôn giáo đều có tổng cộng 10 điều răn.