Mặc dù lịch sử cho thấy Tu chính án thứ 15 vào năm 1870 đã trao cho người da đen quyền bầu cử, nhưng phải đến năm 1966, mọi rào cản mới được dỡ bỏ cho phép họ bỏ phiếu tự do.
Tái thiết và Tu chính án thứ 15 Sau khi Nội chiến kết thúc vào năm 1865, chế độ nô lệ bị bãi bỏ và các động thái được thực hiện nhằm đối xử bình đẳng với mọi công dân theo luật pháp. Vì Tổng thống Andrew Johnson tin rằng mỗi bang có quyền cai trị, một số bang miền Nam đã có thể đưa ra các bộ luật hạn chế quyền tự do của người da đen. Để đáp lại, Quốc hội đã thông qua Tu chính án thứ 14 đối với Hiến pháp Hoa Kỳ vào năm 1868 nhằm cung cấp sự bảo vệ bình đẳng theo luật cho người da đen. Năm 1870, Tu chính án thứ 15 đã được thông qua và trao quyền bỏ phiếu cho mọi công dân nam, không phân biệt chủng tộc hay màu da.
Luật 'Jim Crow' Mặc dù người da đen giành được quyền bỏ phiếu, các cơ quan lập pháp miền Nam đã đánh trả bằng cách thông qua cái gọi là luật "Jim Crow". Những đạo luật phân biệt đối xử này đã bị lợi dụng để hạn chế các quyền công dân của người da đen và để thể chế hóa sự phân biệt. Chúng được sử dụng để tước quyền của người da đen và ngăn cản họ bỏ phiếu. Các cơ chế bao gồm thuế thăm dò ý kiến khiến người da đen nghèo khó không thể bỏ phiếu, các bài kiểm tra đọc viết không công bằng và các điều khoản của ông nội. Những luật này đã từ chối quyền bầu cử của người da đen Mỹ, đặc biệt là ở các bang miền nam. Mặc dù bị đe dọa bởi bạo lực và đe dọa, người Mỹ da đen miền Nam vẫn tiếp tục khẳng định quyền của họ và một số nhà lập pháp và dân biểu da đen đã được bầu.
Ban hành Tu chính án thứ 19 Không chỉ có người da đen phải đối mặt với sự phân biệt đối xử vì phụ nữ không có quyền như nam giới. Họ không được phép bầu cử, không được sở hữu tài sản và không được hưởng hợp pháp số tiền họ kiếm được. Sau vai trò quan trọng mà phụ nữ đóng vai trò là những người theo chủ nghĩa bãi nô, sự ủng hộ của họ đối với Tu chính án thứ 15 và chiến dịch vận động phổ thông đầu phiếu của họ, Quốc hội đã thông qua Tu chính án thứ 19 vào năm 1919, cho phép phụ nữ có quyền bầu cử. Điều này có nghĩa là tất cả người Mỹ da đen, về lý thuyết, đều có quyền bỏ phiếu, bất chấp những ràng buộc áp đặt bởi luật phân quyền và cũng bởi 12 bang không phê chuẩn sửa đổi.
Đạo luật Quyền Công dân năm 1957 Người Mỹ da đen tiếp tục đối mặt với sự phân biệt đối xử đã được thể chế hóa. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, những người lính phục vụ da đen trở về, những người đã phải đối mặt với những rủi ro và nguy hiểm như những người lính khác, không được chuẩn bị để chịu đựng sự phân biệt đối xử và góp thêm tiếng nói của họ vào cuộc chiến vì quyền công dân.
Năm 1955, một phụ nữ da đen tên là Rosa Parks đã bị giam giữ vì từ chối nhường ghế xe buýt của mình cho một người đàn ông da trắng ở Montgomery, Alabama. Hành động này đã gây ra sự phẫn nộ khiến Tiến sĩ Martin Luther King Jr. thành lập Hiệp hội Cải tiến Montgomery. Một lệnh cấm vận đối với hệ thống xe buýt Montgomery kéo dài cho đến khi Tòa án Tối cao ra phán quyết rằng chỗ ngồi tách biệt là vi hiến.
Lịch sử tiếp tục đe dọa cử tri và các vụ việc liên quan đến quyền dân sự khác cuối cùng đã khiến Tổng thống Dwight D. Eisenhower thuyết phục Quốc hội thông qua Đạo luật Dân quyền năm 1957. Điều này quy định việc truy tố liên bang đối với bất kỳ ai ngăn cản người khác bỏ phiếu.
Toàn quyền Bỏ phiếu 1965 Vào tháng 3 năm 1965, một cuộc tuần hành đòi quyền bầu cử đã bị quân đội bang Alabama phá vỡ một cách tàn nhẫn. Vụ việc, được các phóng viên truyền hình chụp lại, khiến Tổng thống Lyndon Johnson kêu gọi ban hành luật về quyền bỏ phiếu. Ông trình bày chi tiết về nhiều cách đã được sử dụng để từ chối quyền bầu cử của người da đen và vào năm 1965, Dự luật về Quyền bầu cử đã được thông qua. Đạo luật này cấm các thủ đoạn quanh co được sử dụng để hạn chế quyền biểu quyết. Rào cản pháp lý cuối cùng còn lại, thuế thăm dò ý kiến, đã bị Tòa án Tối cao cấm vào năm 1966. Lịch sử hiện đại cho thấy rằng phải mất gần 100 năm trước khi người Mỹ da đen đạt được đầy đủ các quyền bầu cử được bảo vệ.