Kali là kim loại rắn, màu trắng bạc, đủ mềm để cắt bằng dao và có dạng sáp ở nhiệt độ phòng. Ở nhiệt độ trên 62,35 độ C, nó nóng chảy tạo thành bạc chất lỏng. Do khả năng phản ứng cao, kali được lưu trữ trong dầu khoáng, chẳng hạn như dầu hỏa.
Kali phản ứng mạnh đến mức nó không tồn tại như một kim loại nguyên chất trong tự nhiên. Khi tiếp xúc với không khí, kim loại kali phản ứng với hơi nước, tạo thành kali hydroxit và khí hydro. Nhiệt lượng của phản ứng vừa đủ để đốt cháy khí hiđro, làm cho kim loại này bốc cháy.
Kim loại kali thể hiện các tính chất tương tự như kim loại natri, nhưng nó đắt hơn, dẫn đến việc sử dụng kali ở dạng nguyên tố bị hạn chế. Các hợp chất kali có rất nhiều cách sử dụng. Chúng rất cần thiết cho sự sống của động thực vật. Muối kali có trong đất tự nhiên, nhưng người nông dân thêm bồ tạt, một hỗn hợp muối kali, làm phân bón.
Kali chiếm 2,7% trọng lượng của vỏ Trái đất. Nó là nguyên tố phong phú thứ bảy trên trái đất. Trong nước biển, kali là nguyên tố phong phú thứ sáu. Các mỏ nằm ở đáy đại dương trước đây. Đức, Utah, New Mexico và California là những nhà cung cấp kali hàng đầu trên thế giới.