Cuộc sống nông trại trong thời kỳ thuộc địa thay đổi tùy thuộc vào vị trí của người nông dân. Ở hầu hết New England, các gia đình nông dân kiếm sống ở mức độ tự cung tự cấp trong các trang trại gia đình nhỏ. Ở Pennsylvania, nông dân chủ yếu có nguồn gốc Đức và Scotland-Ailen giàu có hơn do có sẵn đất canh tác giàu có và hiệu quả. Ở khu vực New York và miền Nam, nông dân sống trong những ngôi nhà rộng rãi và đất đai được thuê bởi những người thuê hoặc nô lệ.
Các gia đình nông dân ở New England thường sống trong những ngôi nhà bằng gỗ có ống khói ở trung tâm để tạo sự ấm áp chống lại mùa đông khắc nghiệt. Người đàn ông hoàn toàn kiểm soát trang trại và vợ mình. Các cặp vợ chồng kết hôn khi còn trẻ và có từ sáu đến tám người con, mặc dù chỉ có khoảng một nửa trong số họ sống đến tuổi trưởng thành. Toàn bộ gia đình đã giúp làm việc nhà. Đất đai không quá màu mỡ và một người nông dân không thể làm gì hơn ngoài việc đáp ứng nhu cầu của gia đình, mặc dù cha mẹ đã cố gắng giúp những người con trai trưởng thành tự lập trên trang trại của riêng họ.
Ở New York, do hệ thống bảo trợ của Hà Lan, nông dân sống trong những ngôi nhà tiện nghi trên những khu đất rộng rãi do nông dân thuê. Tương tự như vậy, các chủ đồn điền ở các thuộc địa phía nam có những điền trang rộng lớn, được chăm sóc tốt và sống trong sự xa hoa. Tuy nhiên, thay vì dựa vào tá điền để làm những công việc nặng nhọc, nông dân miền Nam lại bắt làm nô lệ cho lao động. Ngay cả những nông dân nhỏ ở miền Nam cũng phải làm nô lệ trên những cánh đồng trồng chàm, thuốc lá, bông và lúa của họ.