Các thuộc địa Chesapeake và New England, giống như nhiều nền văn minh đang phát triển, được hình thành thành các xã hội riêng biệt do địa lý của các khu vực tương ứng. Các nguồn tài nguyên và khí hậu sẵn có khác nhau của các xã hội này đã nhường chỗ cho các nền kinh tế, dân số và cách sống khác nhau.
Một trong những đặc điểm nổi bật của các thuộc địa phía nam Chesapeake là khí hậu ấm áp của nó. Thời vụ trồng trọt kéo dài, cùng với đất đai rất màu mỡ, đã khiến nền kinh tế Chesapeake trở nên phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp. Cụ thể, việc trồng thuốc lá trở nên sinh lợi ở các thuộc địa Chesapeake, thúc đẩy sự phát triển của các đồn điền lớn để trồng trọt.
Tuy nhiên, ở New England, đất nhiều đá hơn và mùa sinh trưởng không kéo dài, vì vậy trong khi những người định cư có trang trại, họ không sản xuất trên quy mô của các đồn điền lớn ở phía nam. Nền kinh tế miền Bắc đa dạng hơn. Các khu vực ven biển và sông ngòi cho phép các ngành vận tải biển và đánh bắt cá phát triển, trong khi rừng phong phú giúp phát triển ngành buôn bán gỗ. Những người đánh bẫy và thợ săn di chuyển đến các khu vực có nhiều động vật hoang dã để tìm kiếm lông thú và thú chơi.
Sự nhấn mạnh vào tầm quan trọng của tôn giáo trong cuộc sống hàng ngày đã dẫn đến nhân khẩu học thu hẹp ở các thuộc địa New England: chủ yếu là người Anh da trắng định cư trong các cộng đồng tôn giáo chặt chẽ. Điều này đã được phản ánh trong nền kinh tế. Hầu hết các ngành nghề ở New England không yêu cầu lực lượng lao động lớn, vì săn bắn hoặc đánh cá có thể được thực hiện độc lập và hầu hết các trang trại đều nhỏ và do các gia đình làm việc.
Tuy nhiên, tại các thuộc địa Chesapeake, việc trồng thuốc lá rộng rãi trên các đồn điền rộng lớn là điều hoàn hảo cho lao động tập trung và nhanh chóng thu hút việc buôn bán nô lệ. Một số lượng lớn nô lệ châu Phi đã được đưa vào dân cư và làm việc trên nhiều mẫu đất. Điều này tạo ra thuốc lá, bông và các loại cây trồng khác, và chẳng bao lâu nữa, nô lệ đã thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp miền Nam.