Tên các mặt trăng của Sao Thiên Vương là Cordelia, Ophelia, Bianca, Cressida, Desdemona, Juliet, Portia, Rosalind, Mab, Belinda, Perdita, Puck, Cupid, Miranda, Francisco, Ariel, Umbriel, Titania, Oberon , Caliban, Stephano, Trinculo, Sycorax, Margaret, Prospero, Setebos và Ferdinand. Các mặt trăng được đặt tên theo các nhân vật trong các tác phẩm của William Shakespeare và các nhân vật của Alexander Pope.
Các mặt trăng của Sao Thiên Vương được chia thành ba loại: 13 mặt trăng trong, 5 mặt trăng chính và 9 mặt trăng không đều. Hai mặt trăng lớn nhất của Sao Thiên Vương là Titania và Oberon. Chúng là hai chiếc đầu tiên được phát hiện, và chúng được tìm thấy vào năm 1787 bởi William Herschel. Năm 1851, Ariel và Umbriel được phát hiện bởi William Lassel. Mặt trăng tiếp theo được phát hiện là Miranda, được Gerard Kuiper tìm thấy vào năm 1948. Năm mặt trăng này đủ lớn để được coi là hành tinh lùn nếu chúng quay quanh mặt trời. Chúng tạo nên các mặt trăng chính.
Nhiều mặt trăng của Sao Thiên Vương được phát hiện sau khi NASA phóng tàu Voyager 2 vào năm 1986. Chuyến đi của Tàu Voyager 2 đến Sao Thiên Vương đã tăng gấp ba lần số lượng mặt trăng đã biết của hành tinh này. Kính viễn vọng không gian Hubble, được đưa vào quỹ đạo vào năm 1990, cho phép quan sát và nghiên cứu 12 mặt trăng cuối cùng bên trong của Sao Thiên Vương. NASA cho rằng những mặt trăng này là những tiểu hành tinh bị bắt giữ và một số trong số chúng có khả năng va chạm trong vòng 100 triệu năm.