Pumice Intrusive hay Extrusive?

Đá bọt được phân loại là đá lửa phun ra. Đá phun ra được tạo thành khi dung nham nóng chảy chảy ra từ bên trong Trái đất và đông đặc lại trên bề mặt.

Đá bọt là một loại đá nhẹ, xốp, có bề mặt thô ráp. Nó thường được sử dụng để tẩy tế bào chết và làm mềm da thô ráp trên các vùng như lòng bàn chân, khuỷu tay. Đá bọt có hình dạng và kết cấu từ cách nó được hình thành. Vì là một loại đá phun ra nên đá bọt được hình thành từ dung nham nóng hoặc magma.

Khi dung nham nguội đi khi chạm vào không khí, nó cứng lại thành đá. Loại đá được hình thành phụ thuộc vào lượng khí, cũng như số lượng tinh thể phát triển. Ví dụ, nếu dung nham không tạo thành bất kỳ tinh thể nào, thì obsidian sẽ được hình thành. Khi dung nham giải phóng một số lượng lớn các thành phần dễ bay hơi như khí tự do, những viên đá nhẹ, giống như đá bọt, được hình thành. Khi magma nguội đi, khí tạo ra các hốc hình bong bóng với các kích thước khác nhau. Những lỗ hổng này chính là thứ tạo nên độ nổi và kết cấu thô của đá. Ngoài đá bọt, các ví dụ khác của loại đá này là đá bazan và đá bazan dạng thấu kính.

Một cách dễ dàng để ghi nhớ sự khác biệt giữa đá phun trào và đá xâm nhập là liên kết dòng dung nham với tên gọi. Trong đá phun trào, dung nham chảy ra bên ngoài vỏ Trái đất. Đá xâm thực được hình thành bởi dung nham bên trong.