Sau khi ly khai khỏi chính phủ Anh, 13 thuộc địa Bắc Mỹ đã soạn thảo Điều khoản Liên minh và Liên minh vĩnh viễn để hỗ trợ quản lý các bang mới thành lập, theo HowStuffWorks. Hiến pháp liên bang ban đầu này đã có hiệu lực từ 1781 đến 1789. Tên của nó thường được rút ngắn thành Các điều khoản Liên bang.
Vì các thuộc địa độc lập đang trong quá trình soạn thảo các hiến pháp riêng lẻ của từng bang, nên chế độ áp bức của Anh khiến nhiều công dân không muốn trao quá nhiều quyền lực cho chính quyền trung ương. Mặc dù các quốc gia quyết tâm duy trì chủ quyền của mình, nhưng Quốc hội Lục địa nhận thấy sự cần thiết phải có sự thống nhất trong các vấn đề giữa các tiểu bang, chẳng hạn như tiền tệ, tranh chấp dân sự và chuẩn bị quân sự, theo Hiệp hội Hội trường Độc lập.
Các Điều khoản Hợp bang xác định quyền hạn của chính phủ liên bang và 13 tiểu bang. Bất kể quy mô, mỗi tiểu bang đóng góp một phiếu bầu cho Đại hội Liên bang và luật liên bang yêu cầu đa số chín phiếu để thông qua. Các quốc gia nắm giữ hầu hết quyền lực của mình, bao gồm quyền ban hành luật, in tiền và xác định cách phân bổ lực lượng quân sự, theo Hiệp hội Hội trường Độc lập. Nhiều đặc quyền được cấp cho chính phủ liên bang đã bị phủ nhận do thiếu thẩm quyền. Ví dụ, các Điều khoản Hợp bang cho phép hình thành Quân đội Lục địa, nhưng các bang được trao quyền quyết định xem họ sẽ cung cấp quân đội hay tài trợ. Chính phủ có thể yêu cầu viện trợ tiền tệ, nhưng không có quyền áp thuế.
Năm 1781, Điều khoản Hợp bang có hiệu lực sau bốn năm chờ đợi tất cả 13 bang phê chuẩn, theo HowStuffWorks. Bởi vì vô số điểm mâu thuẫn của học thuyết đã tạo ra một chính phủ liên bang yếu kém, một loạt các khó khăn chính trị xảy ra sau đó, khiến các bang phải soạn thảo Hiến pháp Hoa Kỳ.