Có ba loại đá trầm tích. Các mảnh vỡ của đá và vỏ sò khác đã di cư và kết dính lại với nhau tạo thành đá cứng. Khi khoáng chất và các chất khác bong bóng ra khỏi dung dịch, đá trầm tích hóa học hình thành, chẳng hạn như khi muối mỏ hình thành. Xác động thực vật lâu năm tạo thành đá trầm tích hữu cơ, bao gồm cả than đá.
Lớp trầm tích đi vào những tảng đá này tạo thành những lớp phẳng, rộng được gọi là lớp nền. Các lớp này khác nhau về màu sắc và kết cấu. Trọng lượng của các lớp tích tụ làm cho chúng trở nên rắn chắc và nước rỉ qua các lớp giúp tạo thành xi măng liên kết các hạt, khoáng chất và các mảnh đá lại với nhau. Đá trầm tích thường chứa hóa thạch, và những người săn tìm hóa thạch có thể cho biết tuổi của hóa thạch nếu họ biết tuổi của lớp đá mà chúng được tìm thấy. Khi có một trận động đất hoặc các sự kiện địa chất khác, các lớp của những tảng đá này đôi khi bị nứt ra.
Ví dụ về đá trầm tích là đá breccia, bột kết, đá lửa, đá chert và đá vôi.