Loại đất chủ yếu được tìm thấy trong quần xã sinh vật rừng rụng lá là alfisol. Loại đất này được đặc trưng bởi màu xám đến nâu xám và độ phì tương đối cao. Alfisols hình thành thông qua các quá trình phong hóa, rửa giải và sai lệch.
Đất nói chung được phân loại thành 12 loại hoặc theo thứ tự: đất cứng, đất gel, đất thịt, andisols, đất màu vàng, màu xanh lá cây, chất aridisols, đất mềm, màu xanh lá cây, màu oxisols, loại đất spodosols và loại đất lở loét. Thảm thực vật trong quần xã sinh vật rừng rụng lá, cũng như thảo nguyên và đồng cỏ, chứa rất nhiều cỏ dại.
Quần xã sinh vật rừng rụng lá nằm ở vĩ độ trung bình, nằm giữa vùng nhiệt đới và vùng cực. Quần xã sinh vật này là quần xã sinh vật đông dân cư nhất do khí hậu ôn hòa và thời gian sinh trưởng kéo dài. Những cây rụng lá thường xuyên rụng lá chiếm ưu thế trong cảnh quan của quần xã sinh vật. Khi lá bị thối và thối rữa, các chất dinh dưỡng hữu cơ và khoáng chất sẽ được đất lấy đi, điều này góp phần chủ yếu vào sự màu mỡ của các loài tảo trong quần xã sinh vật rừng rụng lá. Ở Hoa Kỳ, alfisols thường được tìm thấy ở Indiana và Ohio.
Alfisols được phân loại thêm thành các tiểu đơn vị, nhóm lớn và nhóm con. Các tiểu phân chính của alfisols, dựa trên nhiệt độ và độ ẩm, bao gồm aqualfs, xeralfs, boralfs, ustalfs và udalfs. Một số nhóm lớn của alfisols bao gồm các chân trời fragipan, duripan và kandic trong khi aeric, isnic và umbric là các phân loại nhóm phụ.