Giới hạn trong phương pháp nghiên cứu đề cập đến các biến số hoặc ảnh hưởng mà nhà nghiên cứu không thể kiểm soát. Những biến số không thể kiểm soát này thường có nghĩa là thiếu thông tin đầy đủ về đối tượng nghiên cứu nhất định.
Phương pháp và Thiết kế Nghiên cứu
Khi tiến hành bất kỳ hình thức nghiên cứu nào, có nhiều điều có thể xác định thiết kế của một dự án nghiên cứu cụ thể. Câu hỏi nghiên cứu, đạo đức liên quan đến nghiên cứu, phương pháp luận của dự án và ngân sách mà nhà nghiên cứu có sẵn là tất cả các phần chính trong cách một dự án nghiên cứu được thiết kế và thực hiện.
Có hai loại phương pháp nghiên cứu: định tính và định lượng. Cả hai phương pháp nghiên cứu đều liên quan đến việc thu thập thông tin về một chủ đề. Nghiên cứu định tính được sử dụng thường xuyên nhất trong khoa học xã hội để nghiên cứu con người, hành vi, ngôn ngữ và văn hóa. Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong nghiên cứu khoa học và trong một số ngành, chẳng hạn như kinh tế học. Loại nghiên cứu này bao gồm việc định lượng hoặc đo lường chủ đề hoặc dữ liệu liên quan đến chủ đề đó.
Giới hạn trong phương pháp nghiên cứu
Tất cả các nghiên cứu đều có một số hạn chế vì luôn có những biến số nhất định mà nhà nghiên cứu không thể kiểm soát. Đôi khi những hạn chế này ít nhiều có ý nghĩa, tùy thuộc vào loại hình nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu. Một số hạn chế có thể xảy ra trong phương pháp nghiên cứu bao gồm thiếu dữ liệu có sẵn hoặc đáng tin cậy, thiếu nghiên cứu trước về chủ đề này, cỡ mẫu có sẵn hoặc biện pháp được sử dụng để thu thập dữ liệu.
Mặc dù những hạn chế trong phương pháp nghiên cứu có thể gây ra các vấn đề trong nghiên cứu, nhưng thông thường thì dự án nghiên cứu vẫn có thể tiếp tục bất chấp những hạn chế hiện tại. Có những trường hợp trong đó các giới hạn có thể khiến một dự án nghiên cứu nhất định không thể sử dụng được hoặc không đáng tin cậy, đặc biệt là khi không có đủ thông tin hoặc biến số để có được sự giải thích chính xác về dữ liệu đang được nghiên cứu. Thông thường, trong nghiên cứu định tính, một số hạn chế nhất định khiến phát hiện không được áp dụng cho dân số lớn hơn, khiến kết quả nghiên cứu không sử dụng được hoặc không thể sử dụng cho các nhóm đối chứng lớn hơn.
Ngoài những hạn chế trong phương pháp nghiên cứu, cũng có thể có những hạn chế của nhà nghiên cứu thực hiện nghiên cứu. Nghiên cứu đúng, chính xác có nghĩa là không thiên vị để đưa ra một đại diện chính xác về một nhóm hoặc các nhóm dữ liệu nhất định. Khi một nhà nghiên cứu có sự thiên vị có thể làm sai lệch cách giải thích của nghiên cứu, thì đó được coi là một hạn chế của nhà nghiên cứu. Việc thiếu khả năng tiếp cận thông tin, kinh nghiệm và sự quen thuộc với chủ đề một cách thích hợp đều có thể là những hạn chế của nhà nghiên cứu có thể ảnh hưởng đến dự án hoặc phương pháp nghiên cứu.
Loại Nghiên cứu Nghiên cứu
Ngoài các phương pháp nghiên cứu khác nhau, còn có các nghiên cứu khác nhau. Bất kỳ phương pháp nghiên cứu hoặc nghiên cứu nào cũng có thể có những hạn chế ở một mức độ nào đó. Các giới hạn sẽ khác nhau tùy thuộc vào loại nghiên cứu và nội dung đang được nghiên cứu.
Nhiều nghiên cứu nghiên cứu thuộc một trong một số loại phổ biến. Nghiên cứu tương quan kiểm tra hiệp biến của nhiều biến số, chẳng hạn như hiệp biến của bệnh tim ở những người được chẩn đoán là béo phì. Thí nghiệm thực được định nghĩa là nghiên cứu trong đó tất cả các biến được cố gắng kiểm soát, ngoại trừ biến là trọng tâm của nghiên cứu. Những nghiên cứu này thường là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và bao gồm nghiên cứu nhóm chứng truyền thống và nghiên cứu mù đôi.
Thử nghiệm bán thực là một loại nghiên cứu khác tương tự như các thử nghiệm thực sự. Sự khác biệt chính giữa thực nghiệm và gần như thực nghiệm là nghiên cứu bán thực nghiệm sử dụng các nhóm được hình thành tự nhiên, thay vì tập hợp các nhóm lại với nhau cho mục đích của nghiên cứu.