Chủ nghĩa bảo hộ có thể thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp đang phát triển ở các nước đang phát triển, nhưng nó cũng dẫn đến giá cả tổng thể cao hơn và giảm sự đổi mới. Các quan chức chính phủ thường thực hiện các biện pháp của chủ nghĩa bảo hộ để hỗ trợ các lợi ích giữ họ tại vị hoặc để phát triển ngân khố công cộng. Nhìn chung, tất cả các thành viên của thị trường toàn cầu được hưởng lợi nhiều hơn từ các chính sách thương mại tự do hơn là từ chủ nghĩa bảo hộ.
Các quốc gia được khuyến khích thực hiện các chính sách bảo hộ nhất có các ngành sản xuất tương đối nhỏ, không có tính cạnh tranh. Họ đưa thuế quan, trợ cấp và các biện pháp khác có hiệu lực để các nhà sản xuất không bị choáng ngợp bởi chi phí thấp hơn của các sản phẩm nước ngoài. Các nước đang phát triển có thể hưởng lợi từ chủ nghĩa bảo hộ vì nó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các ngành sản xuất độc lập, thịnh vượng. Họ cũng có thể sử dụng số tiền thu được từ thuế quan để đầu tư vào các công trình công cộng.
Tương tự, các quốc gia được hưởng lợi từ chủ nghĩa bảo hộ trong thời chiến. Trong khi sự phụ thuộc lẫn nhau là điều mong muốn trong thời bình, chiến tranh đòi hỏi sự cạnh tranh và độc lập. Thuế quan và giới hạn nhập khẩu củng cố sức sống kinh tế của một quốc gia trong khi có khả năng làm suy yếu nền kinh tế của kẻ thù. Hơn nữa, chủ nghĩa bảo hộ trong ngành công nghiệp vũ khí rất được mong đợi trong những trường hợp như vậy vì việc phụ thuộc vào một quốc gia khác để mua vũ khí có thể gây tử vong.
Phần lớn, các nhà kinh tế học nhấn mạnh những tác động tiêu cực của chủ nghĩa bảo hộ. Nó làm giảm thương mại quốc tế và tăng giá cho người tiêu dùng. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong nước nhận được sự bảo hộ có ít động lực hơn để đổi mới. Mặc dù thương mại tự do khiến các doanh nghiệp kém cạnh tranh ngừng hoạt động kinh doanh, nhưng cuối cùng, nguồn lực và lao động bị thay thế vẫn được phân bổ cho các lĩnh vực khác của nền kinh tế.