Thịt nai thường là thịt của một con nai, mặc dù thịt đến từ các động vật tương tự trong họ Cervidae (chẳng hạn như nai sừng tấm, nai sừng tấm, tuần lộc, tuần lộc và linh dương) cũng được gọi là thịt nai. Tất cả những điều này động vật, được gọi chung là cervids, thường bị săn bắt để làm thực phẩm.
Từ "thịt nai" đã có trong tiếng Anh từ tiếng Pháp Cổ. Ban đầu, nó có nghĩa là thịt từ bất kỳ trò chơi lớn nào, đặc biệt là hươu hoặc nai, nhưng lợn đực hiện được coi là một loại thịt riêng biệt. Từ này cũng có nghĩa chung là một cuộc đi săn. Ngày nay, săn bắn xác sống, cho dù là thịt nai hay gạc cúp, được thực hiện rộng rãi như một biện pháp kiểm soát dân số do việc giảm hoặc loại bỏ các động vật ăn thịt có đỉnh ở nhiều vùng rừng.
Ở một số khu vực, chẳng hạn như vùng cao Bắc Cực, thịt nai đóng vai trò là nguồn thực phẩm chính. Những người bản địa sống ở đó sử dụng tuần lộc để lấy thịt và quần áo và thậm chí đã nuôi chúng như một con vật thuần hóa trong quá khứ.
Trong số các loài săn bắn được làm thịt nai, nai sừng tấm là loài lớn nhất. Chúng có thể mang lại hơn 900 pound thịt. Cả nai sừng tấm và nai sừng tấm đều có hương vị giống như thịt bò, trong khi nai sừng tấm, một loài phổ biến hơn và tầm hoạt động rộng hơn, có hương vị nhẹ phụ thuộc nhiều vào chế độ ăn của động vật. Mặc dù thịt hươu la được coi là thịt nai, nhưng hươu la không thường bị săn bắt làm thực phẩm do hương vị khó chịu của chúng.