Ví dụ về các nhà sản xuất trong hồ và ao bao gồm tảo, thực vật phù du, cây ngải cứu, cây nước có gai, cây liễu lớn, hoa súng, cỏ bản địa và hoa dại. Thực vật thủy sinh có ba loại: loại phát triển hoàn toàn dưới nước, những loài nổi trên mặt nước và những loài bám rễ dưới nước nhưng vươn lên trên mặt nước.
Vùng ven của hồ hoặc ao đủ nông để cho phép ánh sáng chiếu xuống tận đáy. Trong khu vực này, các loài thực vật như cỏ, cây và hoa mọc ở dưới đáy trong khi lá trao đổi oxy ở trên bề mặt.
Vùng từ tính, hướng ra giữa hồ, không cho ánh sáng mặt trời chiếu tới đáy. Tuy nhiên, các loài thực vật thủy sinh nổi trên mặt nước lại phát triển mạnh ở vùng này. Tảo, hoa súng, bèo tấm, ếch nhái, ngải sao, chân chim và gai nước tạo năng lượng thông qua quá trình quang hợp.
Một số dạng tảo làm nghẹt hệ sinh thái của hồ hoặc ao bằng cách sử dụng tất cả oxy trong nước và chặn ánh sáng mặt trời trên bề mặt. Những đám tảo xanh lục khổng lồ phát triển mạnh nhờ phốt pho và nitơ được mang đến các hồ theo dòng nước chảy từ việc bón phân nông nghiệp.
Thực vật thủy sinh, cả gần bờ và giữa các hồ và ao, cung cấp thức ăn cho sinh vật tiêu thụ chính như côn trùng. Đến lượt mình, bọ lại cung cấp thức ăn cho những kẻ săn mồi bao gồm nhện, ếch, thằn lằn, cá và nhiều dạng sống khác trong hồ và ao. Cá có khả năng cung cấp thức ăn cho con người.