Máy điện báo đã thay đổi xã hội bằng cách mang lại cho người Mỹ khả năng liên lạc với khoảng cách xa. Điện báo trở nên quan trọng vì nó giúp người Mỹ có cơ hội gửi và nhận tin nhắn với tốc độ và khối lượng chưa từng có.
Giáo sư Samuel Morse, một giảng viên tại Đại học New York, đã tạo ra phiên bản điện báo đầu tiên vào những năm 1830. Mặc dù đã được lên kế hoạch tương đối tốt, nhưng thiết bị này vẫn cần phải sửa đổi đáng kể trước khi cách mạng hóa hệ thống truyền thông trên toàn thế giới. Phát minh của máy điện báo đã thúc đẩy mong muốn của mọi người gửi và nhận thông tin và tin tức từ những khoảng cách xa để hiểu được những gì đang diễn ra trên thế giới.
Sự phát triển của chiếc điện báo đầu tiên
Morse đã nghĩ ra một kế hoạch cho điện báo vào cuối những năm 1700. Tuy nhiên, ông đã không tạo ra một thiết bị hoạt động cho đến những năm 1830. Mặc dù nhiều người khác đề xuất các khái niệm tương tự, Morse đã bảo đảm tài trợ của liên bang để tiếp tục khám phá lĩnh vực liên lạc thông qua điện báo. Sau gần một thập kỷ nghiên cứu về đường truyền và khắc phục các lỗi kỹ thuật, Morse đã giới thiệu một chiếc điện báo hoạt động vào năm 1843. Chiếc điện báo đó cho phép người dùng ở hai đầu gửi và nhận tin nhắn. Tuy nhiên, nó chỉ hoạt động trong khoảng cách ngắn. Đến năm 1844, Morse có thể chuyển thông điệp đầu tiên của mình từ Washington, D.C., tới Baltimore. Hai mươi năm sau, một đường dây điện báo được đặt từ Hoa Kỳ đến Châu Âu dưới Đại Tây Dương.
Tại sao Samuel Morse lại phát minh ra Điện tín
Các nhà phát minh người Anh, Ngài Charles Wheatstone và Ngài William Cooke đã phát triển một hệ thống điện báo thô sơ sử dụng các kim từ tính di chuyển bằng dòng điện để chỉ ra các chữ cái và số. Hệ thống này đã được sử dụng ở Anh cho các tín hiệu đường sắt. Trở lại Mỹ, Morse bị cuốn hút bởi khái niệm điện từ học, một thuật ngữ mà anh đã học được khi ở nước ngoài. Ông quyết định theo đuổi sở thích của mình và sản xuất một máy điện báo một mạch hoạt động bằng pin. Morse đã làm việc với các nhà nghiên cứu Leonard Gale và Alfred Vail để thúc đẩy việc hoàn thiện điện báo, nhận tài trợ từ Quốc hội vào năm 1943 để thử nghiệm hệ thống của họ. Thông điệp đầu tiên từ Washington, D.C. tới Baltimore được gửi vào ngày 24 tháng 5 năm 1844 với nội dung: "Chúa đã tạo ra điều gì!"
Cách thức hoạt động của Telegraph
Máy điện báo sau này hoạt động bằng cách truyền tín hiệu điện qua dây giữa các trạm. Các tín hiệu điện do Morse phát triển được đặt theo tên ông với tên mã Morse. Mã này sử dụng một tập hợp các dấu gạch ngang và dấu chấm để đại diện cho từng chữ cái trong bảng chữ cái giúp việc truyền tải các thông điệp dài hơn qua các dòng trở nên đơn giản. Ví dụ, tín hiệu cứu nạn được quốc tế công nhận, SOS, nhanh chóng, dễ nhớ và dễ truyền, theo History. Chữ S là ba chấm và chữ O là ba dấu gạch ngang.
Sử dụng Thông thường cho Điện báo
Điện báo đã giúp quân đội liên lạc chiến thuật trong các vùng chiến sự và cho phép các nhà báo và báo chí gửi và nhận tin tức nhanh chóng và hiệu quả, giúp đưa thông tin kịp thời. Chẳng bao lâu nữa, tiền có thể được "kết nối" với đường dài. Các tuyến đường sắt dựa vào điện báo, có thể biết được các chuyến tàu khởi hành và đến.
Các Hình thức Truyền thông Đường dài Hiện đại
Nhìn thấy tiềm năng của việc liên lạc nhanh hơn, những người khác đã tham gia cuộc đua để cải tiến máy điện báo. Western Union tuyên bố chủ quyền với chiếc điện báo đầu tiên, cho phép liên lạc thành công giữa bờ biển Đại Tây Dương và Thái Bình Dương vào năm 1861, trong khi những cải tiến nhanh chóng về công nghệ cho phép gửi và nhận các thông điệp quốc tế vào đầu thế kỷ 20.
Thư điện báo thành công, mất nhiều ngày và nhiều tuần mới đến được, trước khi được thay thế bằng đài phát thanh và truyền hình. Đầu thế kỷ 21 chứng kiến sự thay thế của điện báo bằng điện thoại, sau đó là máy fax. Internet và công nghệ di động kể từ đó đã chiếm lĩnh liên lạc đường dài.