Một số chính sách kinh tế của Hoover trong thời kỳ Đại suy thoái là Biểu thuế Smoot-Hawley, giảm thuế và các dự án công trình công cộng vĩ đại. Herbert Hoover là Tổng thống thứ 31 của Hoa Kỳ. Tên của Hoover trở thành đồng nghĩa với cuộc Đại suy thoái vì các thuật ngữ như Hooverville, chăn Hoover và cờ Hoover, đặc trưng cho sự nghèo đói và đau khổ của con người.
Đạo luật Smoot-Hawley năm 1930 là dự luật tăng thuế hàng hóa nhập khẩu. Dự luật được ban hành với mục đích bảo vệ các nhà sản xuất trong nước khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài. Niềm tin rằng ít cạnh tranh hơn sẽ dẫn đến việc người dân Mỹ mua nhiều sản phẩm do Mỹ sản xuất hơn. Dự luật Smoot-Hawley đã không giúp cải thiện được nền kinh tế đang thất bại và dẫn đến sự sụt giảm đáng kể tổng thể trong thương mại quốc tế và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.
Hoover cũng tạo ra các dự luật để giảm thuế, chẳng hạn như Đạo luật Doanh thu năm 1932. Dự luật thuế không đốt cháy nền kinh tế Mỹ như Hoover nghĩ, nhưng thay vào đó, nó làm cho nó tồi tệ hơn. Hoover cũng dẫn đầu các nỗ lực tại các cơ sở xây dựng lớn như Đập Hoover. Những cơ sở này được xây dựng với mục đích đem lại tiền cho các công ty xây dựng và cung cấp việc làm cho nhiều người Mỹ. Hoover đã nỗ lực để phục hồi nền kinh tế trong nhiệm kỳ tổng thống của mình, nhưng cuộc Đại suy thoái đã có hiệu lực đầy đủ vào thời điểm ông thông qua các biện pháp luật này.