Có ít hơn 50.000 con đười ươi sống trong tự nhiên, trong khi gần đây 100 năm, đã có 230.000 con đười ươi sống trong các khu rừng ở Đông Nam Á. Các nhà khoa học nhận ra hai loài đười ươi khác nhau, một loài đến từ Borneo và chiếc khác từ Sumatra. Khoảng 41.000 con đười ươi Borneo vẫn còn trong tự nhiên, trong khi chỉ có 7.500 con đười ươi Sumatra còn tồn tại.
Đười ươi Bornean được xếp vào danh sách các loài có nguy cơ tuyệt chủng, trong khi đười ươi Sumatra, thậm chí còn hiếm hơn, được coi là loài cực kỳ nguy cấp. Những lý do chính khiến đười ươi gặp nguy hiểm là do môi trường sống bị phá hủy, săn trộm và buôn bán vật nuôi bất hợp pháp. Đười ươi cái, chỉ sinh ba đến năm năm một lần, là mục tiêu săn lùng thường xuyên nhất của những kẻ săn lùng. Khi chúng bị bắt cùng với con cái của chúng, con cái sẽ được bán làm vật nuôi. Thật không may, chỉ có một trong bốn đến sáu con đười ươi con đến chợ còn sống. Khai thác gỗ và các hoạt động nông nghiệp phá hủy các khu rừng nguyên sinh mà đười ươi gọi là nhà.
Đười ươi là thành viên của họ vượn lớn cùng với con người, tinh tinh và khỉ đột. Mặc dù chúng không có quan hệ họ hàng gần với con người như tinh tinh, nhưng chúng chia sẻ 96,4% DNA của chúng với con người. Đười ươi được đặt tên vì bề ngoài giống con người; “Đười ươi” là từ trong tiếng Mã Lai có nghĩa là “người của rừng”.