Bốn kiểu hô hấp nhân tạo bao gồm hồi sức tim phổi, thở bằng miệng, liệu pháp oxy và thở máy. Những kiểu hô hấp nhân tạo này được Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ xác nhận, theo Encylopaedia Britannica. Nếu được áp dụng đúng cách, chúng có thể giúp ngăn ngừa một số trường hợp tử vong.
Vào năm 2008, các nhà nghiên cứu xác định rằng thở bằng miệng thường làm chậm tuần hoàn, vì vậy phương pháp hô hấp nhân tạo chỉ dùng tay, chỉ sử dụng ấn ngực, đã trở thành phương pháp được Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ áp dụng. Thở máy bằng máy thở được sử dụng trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe để hỗ trợ bệnh nhân thở. Liệu pháp oxy cần sự hỗ trợ của chuyên gia chăm sóc sức khỏe để ép một túi nén chứa đầy oxy vào phổi của bệnh nhân.
Vào những năm 1950, các nhà nghiên cứu đã phát triển các phương pháp như nâng cằm để làm sạch các vật cản khỏi đường thở của nạn nhân, dẫn đến thở bằng miệng. Thở bằng miệng kết hợp dọn các vật cản khỏi miệng nạn nhân, ngửa cằm lên và ra trước để mở đường thở và đặt miệng của người cứu hộ lên miệng nạn nhân. Sau đó, người cứu hộ luân phiên thở vào miệng nạn nhân để nạp đầy không khí vào phổi, sau đó bỏ miệng của chính mình ra để nạn nhân thở ra. Sau đó, ép ngực nhịp nhàng được thêm vào phương pháp thở bằng miệng để tạo ra hình thức hô hấp nhân tạo cơ bản.