Bản thân chứng giảm bạch cầu trung tính thường không gây ra triệu chứng; tuy nhiên, loét, áp-xe, phát ban và sốt có thể xảy ra do nhiễm trùng có thể do rối loạn, theo WebMD. Những bệnh nhiễm trùng này thường phát triển ở màng nhầy của cơ thể, thường ở miệng hoặc trên làn da.
Giảm bạch cầu trung tính là tình trạng cơ thể có số lượng bạch cầu trung tính thấp bất thường, theo WebMD. Vì tình trạng này thường không tạo ra các triệu chứng, nên mọi người thường tìm hiểu về chẩn đoán của họ khi thực hiện các xét nghiệm máu không liên quan. Bạch cầu trung tính, một loại tế bào bạch cầu, giải phóng các hóa chất tiêu diệt vi sinh vật lạ như một phần của phản ứng miễn dịch của cơ thể. Những người bị giảm bạch cầu trung tính dễ bị nhiễm trùng cơ hội hơn ở một số khu vực nhất định và vết thương có thể mất nhiều thời gian để chữa lành hơn bình thường. Một cá nhân bị giảm bạch cầu càng lâu thì càng có nhiều khả năng bị nhiễm trùng nặng.
Theo WebMD, có 4 nguyên nhân chính gây ra chứng giảm bạch cầu trung tính. Chúng bao gồm các vấn đề về tủy xương ảnh hưởng đến việc sản xuất bạch cầu trung tính, sự phá hủy mãn tính của bạch cầu trung tính sau khi được giải phóng khỏi tủy xương, nhiễm trùng và thiếu hụt dinh dưỡng. Các vấn đề về tủy xương có thể gây giảm bạch cầu bao gồm bệnh bạch cầu, xạ trị, hóa trị và dị tật bẩm sinh bẩm sinh. Các bệnh nhiễm trùng có thể gây giảm bạch cầu bao gồm bệnh lao, sốt xuất huyết, HIV, virus cytomegalovirus, virus viêm gan và virus Epstein-Barr.
Mặc dù chứng giảm bạch cầu trung tính không gây ra các triệu chứng, nhưng nên liên hệ với bác sĩ nếu bệnh nhân nhận thấy các dấu hiệu của bệnh nhiễm trùng nhỏ, theo Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ. Các triệu chứng này bao gồm sốt, ớn lạnh, đổ mồ hôi, đau họng, đau bụng, đau hậu môn, nóng rát khi đi tiểu, tiêu chảy, ho, khó thở hoặc tiết dịch âm đạo bất thường hoặc ngứa.