Oersted đã tiến hành một thí nghiệm trong đó ông cho nhôm clorua phản ứng với hợp kim hỗn hống kali của kali và thủy ngân, tạo ra một mẫu nhôm có độ tinh khiết hạn chế bằng cách giảm áp suất và tăng nhiệt trên hỗn hợp nhôm tạo thành. Mặc dù Oersted là nhà khoa học đầu tiên được ghi nhận là đã sản xuất nhôm, nhưng nguyên tố này đã được lý thuyết hóa tốt trước thời đại và các thí nghiệm của ông.
Oersted đã tiến hành các thí nghiệm sản xuất của mình vào năm 1825, nhưng các nhà khoa học và triết học tự nhiên đã thảo luận về vật liệu được gọi là nhôm sớm hơn nhiều, có từ năm 1787. Yếu tố còn thiếu trong các cuộc thảo luận của họ là phương pháp chiết xuất mà Oersted cuối cùng đã đi tiên phong và được sử dụng để sản xuất một lượng nhỏ kim loại, xác nhận sự tồn tại của nó.
Nhôm rất đắt vào đầu thế kỷ 19, trên 1.200 đô la một kg, cho đến khi các quy trình tinh chế mới vào những năm 1880 mở ra lĩnh vực sản xuất và khai thác nhôm. Các quy trình này dựa vào việc chiết xuất nhôm từ các hợp chất như bôxít và ôxít nhôm.
Nhôm là kim loại phổ biến nhất được tìm thấy trong vỏ Trái đất. Ban đầu rất khó để thu nhận và tinh chế vì tất cả nhôm có trong tự nhiên đều tồn tại ở trạng thái liên kết với các hợp kim, nguyên tố và chất khác. Điều này khiến việc khám phá và bắt đầu sản xuất trở nên khó khăn độc đáo.