Đá vôi là một loại đá trầm tích thường có màu trắng vì nó được cấu tạo phần lớn từ canxi cacbonat. Tuy nhiên, đá vôi có thể có màu do tạp chất; oxit sắt có thể làm cho đá vôi có màu đỏ, nâu hoặc vàng, trong khi cacbon có thể làm cho đá vôi có màu xám, đen hoặc xanh lam.
Đá vôi được biết đến với nhiều tên khác, được xác định bởi bề ngoài của đá, cách nó được hình thành, thành phần của nó và các yếu tố khác. Các tên thông thường của đá vôi bao gồm:
- Phấn - Phấn là một loại đá vôi mềm, thường có màu xám nhạt hoặc trắng, và nó có kết cấu rất mịn. Lớp vỏ đá vôi còn sót lại của nhiều sinh vật biển cực nhỏ khác nhau tạo thành phấn.
- Travertine - Travertine hình thành trong hang động do lượng mưa bốc hơi.
- Coquina - Coquina được hình thành trên các bãi biển từ các mảnh vỡ của vỏ sò.
- Đá vôi thạch học - Đá vôi thạch học thường có kích thước hạt đồng đều và mịn, và nó khá dày đặc. Các hạt tạo thành từng lớp mỏng, dễ tách rời, tạo nên bề mặt rất mịn.
- Tufa - Sự kết tủa của các vùng nước giàu canxi, chẳng hạn như suối nước nóng, bờ hồ và các khu vực khác, tạo ra đá vôi tufa.
- Đá vôi hóa thạch - Đá vôi hóa thạch được hình thành từ hóa thạch vỏ và xương.
- Đá vôi Oolitic - Đá vôi Oolitic chủ yếu bao gồm các oolit canxi cacbonat, là những hình cầu hình thành từ sự kết tủa đồng tâm trên các mảnh vỏ hoặc hạt cát.